CÀNG LÚN SÂU VÀO LỤC HÀO
CÀNG THẤY HAY - HUYỀN ẢO CỦA DỊCH
Bài đồng dao Chi Chi Chành Chành có liên quan gì đến Kinh Dịch ?
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa đứt cương
Ba vương ngũ đế
Bát qué(quẻ) đi tìm
Con chim làm tổ
Ù à ù ập
Lại (ngồi) sập xuống đây.
----------------------------------------------
Diễn giải :
Chi chi chành chành (Nhánh nhánh cành cành)
Theo được biết chữ Chi 支 vốn xưa kia của người Việt đọc là Nhánh, về sau khi người phương Bắc chiếm lấy rồi đọc là Chi, người Việt sợ mất âm cũ nên thêm vào Nhánh để lưu lại âm xưa chứ về mặt ngữ âm nó chẳng có tiêu chí gì để Chi đi với nhánh cả. Chuyện này không phải là hiếm như: Di dời, sư sãi, tùy theo v.v… Còn chữ Can 干 vốn đọc là Cành, do về sau phương Bắc không dùng nghĩa này nữa, có lẽ vì sợ người Việt nhận ra nguồn gốc của nó, nhưng ta có thể tìm thấy nét nghĩa này trong chữ Can 竿 = Cây sào. Vì sao chữ Can 竿 với bộ trúc đầu lại có nghĩa là cây sào nếu như không phải vì chữ can 干 vốn có đọc là cành, nghĩa là cành cây, ở đây là cành trúc hay tre 竿 thì dài nên mới có nghĩa cây sào. Cũng chính vì chữ Can là cành nên khi bị gãy thì ngã nên chữ Ngọ 午còn có âm khác là ngũ , theo tôi xưa kia người Việt gọi là Ngã, vì vậy mà có từ Ngã ngũ.
Cái đanh thổi lửa.
Cái đanh là cái đinh = Can Đinh 丁 . Thổi lửa = Hỏa = Ly = Phương Nam. Thổi là làm cho bùng lên, sáng lên, phát triển lên, ở đây có nghĩa là chuyển động hay biến dịch. Điều này cho thấy rằng người làm ra bài đồng dao này dựa trên Hậu Thiên Bát Quái.
Con ngựa mất cương.
Con ngựa là chi Ngọ 午thuộc chánh Nam. Mất cương nên nó chạy mãi không ngừng, hay gọi là biến, biến ở đây tức là Biến Dịch hay đó chính là cái dụng của Hậu Thiên Bát Quái.
Ba Vương Ngũ Đế /Tam Vương Ngũ Đế/Tam Hoàng Ngũ Đế :
Tam vương tức Tam Hoàng : Thiên hoàng – Địa hoàng – Nhân hoàng.
Ngũ Đế tức : Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ = Ngũ Hành.
Tam Hoàng Ngũ Đế : đều là những bậc đế vương trong truyền thuyết của thời cổ đại Trung Quốc. Nhưng trong những thời đại khác nhau, Tam Hoàng Ngũ Đế lại có những tên gọi khác nhau.
Đầu tiên Tam Hoàng gồm có: Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng, hoặc giả Nhân Hoàng được thay bằng Thái Hoàng. Nhưng theo với đà phát triển về xã hội và kinh tế thì lại có Toại Nhân, Phục Hy và Thần Nông.
Ngoài ra lại còn có Nữ Oa,Cộng Công, Hoàng Đế, Chúc Dung cũng được coi là Tam Hoàng.
Thần Nông được truyền thuyết coi là người phát minh nông nghiệp và y dược.Toại Nhân là người phát minh ra cách xoáy khoan lên gỗ để lấy lửa trong truyền thuyết.Phục Hy và Nữ Oa thì được coi là thủy tổ của nhân loại trong truyền thuyết của người Trung Quốc.
Theo truyền thuyết thì hai người này là anh và em của nhau,toàn nhân loại đã bắt nguồn từ họ.Phục Hy dạy cho dân chúng biết đan lưới, làm các công việc đánh cá, săn bắn. và chăn nuôi.Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá trời, trị được nạn hồng thủy, giết các loài mãnh thú, làm cho nhân dân được an cư lạc nghiệp. Chuyên Húc là viên quan coi giữ lửa, được người đời sau tôn lên làm thần lửa.
Tất cả các nhân vật ấy đều là những vị anh hùng trong truyền thuyết, đã lãnh đạo loài người tiến hành các cuộc đấu tranh chống thiên nhiên.
Sau Tam Hoàng và trước triều đại nhà Hạ thì lại có truyền thuyết về Ngũ Đế nhưng ở các thời kì khác nhau, Ngũ Đế cũng có những tên khác nhau.
Đầu tiên Ngũ Đế là Hoàng Đế,Chuyên Húc, Đế Hạ, Đế Nghiêu, Ngu Vũ.Về sau là Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Đế Nghiêu và Đế Thuấn.
Ngoài ra lại thấy Viêm Đế, Thái Hạo, Thiếu Hạo, Cao Tân (Đế Hạo) được quy vào Ngũ Đế. Tất cả đều là những lãnh tụ của bộ lạc hay nhóm bộ lạc trong xã hội nguyên thủy mà truyền thuyết đã ghi lại.
Bát Qué/quẻ đi tìm :
-Trong Dịch Số ,bát quẻ tượng trưng cho các cung Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Li – Khôn – Đoài. Đi tìm có nghĩa là động, là biến, vì hậu thiên bát quái là động đối lập với tiên thiên bát quái là tịnh, do biến động nên mới sinh sôi nảy nở muôn loài.
Con chim làm tổ.
Con chim này là con chim Diệc về sau Phương Bắc gọi là Dịch, là tên của hệ thống triết lí vô cùng uyên bác mà ngày nay ta gọi là Dịch học hay còn được biết đến qua Kinh Dịch.
Ù à ù ập.
Tương đương với xuất xuất nhập nhập. Có nghĩa là Tám quẻ phối hợp với nhau , tương tác với nhau là thành 64 quẻ trong Kinh Dịch ( mình sẽ làm một bài viết về 64 quẻ trong Kinh Dịch sau)